Kiến trúc Thổ Hà

Cổng làng xây gạch

Kiến trúc cổ của Thổ Hà gồm: ba di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là Đình, Chùa, Văn Chỉ, trong đó có gần hai chục tấm bia đá ghi chữ nho ở cả hai mặt; Cổng làng, bốn ngôi Điếm của bốn xóm, các ngôi nhà cổ. Cổng làng Thổ Hà có kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, là một trong những chiếc cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu. Quanh khu vực cổng làng, đình và chùa có rất nhiều cây đa đều hàng trăm năm tuổi. Trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

Đình Thổ Hà

Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Đình thờ Thân Cảnh Phúc,là Tướng nhà Lý, có công lớn trong kháng chiến chống quân Tống, dân tộc Tày, tù trưởng châu Quang Lang (Châu Ôn-Lạng Sơn), được vua Lý gả công chúa và phong chức tri châu. Đó là một công trình kiến trúc quy mô trên một khu đất rộng 3.000 m², một nghệ thuật điêu khắc độc đáo. Đình đã từng được chính quyền Pháp xếp hạng trong Viện bảo tàng Bác Cổ Đông Dương. Đình được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa năm 1960. Đình xây dựng năm 1685 thời vua Lê Chính - Hòa năm thứ 7. Đến năm 1807 (Gia Long năm thứ 5) xây dựng tiền tế và hai nhà tả vu, hữu vu. Thời kỳ kháng chiến chông Pháp, đình bị rỡ ngói, phá sàn và chấn song. Mặt khác hàng năm thường bị lụt, có năm nước ngập đến mái ngói, nên đình bị xuống cấp nhiều.

Trong suốt thời gian từ lúc được xây dựng tới bây giờ, ngôi đình đã được sửa sang và nâng cấp rất nhiều lần. Năm 1977 - 1979 nhà nước đã đầu tư kinh phí và cử cán bộ về trùng tu, nâng ngôi đình cao thêm 1,8m, nhưng ngôi tiền tế vẫn chưa nâng. Năm 1988 dân Thổ Hà với tinh thần tự lực cánh sinh đã tôn tạo ngôi tiền tế và nâng cao bằng ngôi đình.

Đình Thổ Hà trong giai đoạn đang trùng tu

Đình được dựng theo kiểu chữ công, toà bái đường dài 27m, rộng 16m, dựng trên nền cao 0,5m xung quanh bó đá tảng xanh chia làm ba cấp, mái đình lợp ngói mũi hài to bản, bốn góc là những đầu đao cong vút. Đầu bờ nóc uốn quanh hình lưỡi liềm, góc mái có gắn nghê, thú nhỏ bằng sành nung già lửa đỏ tía. Có tất cả 22 đầu bẩy lực lưỡng, chạm rồng, mây, nghê, thú rất trau chuốt. Bái đường chia làm 7 gian, 48 cột lim, bộ khung mái chạm trổ tinh vi, nhiều cảnh trí sinh động.Đặc biệt có khá nhiều hình thiếu nữ mặc váy dài, yếm, tóc búi hoặc chít khăn với nét mặt rạng rỡ trong tư thế cưỡi phượng, đè rồng, hoặc đang nhảy múa giữa các lớp mây bồng bềnh. Lòng bái đường lát đá xanh nhẵn bóng. Bức cửa võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính.

Trong đình có ba tấm bia to: Thủy tạo đình miếu bi nói về việc xây dựng đình, Cung sao sự tích thánh (Lão Tử) nói về sự tích thành hoàng Thái thượng lão quân, Bia sao sắc phong sao các đạo sắc của các triều đại trước phong tặng. Ngoài ra còn có các bia khác quy tập tại đình nói về những điều lệ trong dân đã quy định.

Năm 2006 được sự trợ giúp kinh phí của Vương quốc Bỉ đình Thổ Hà lại được dỡ hết để làm lại, dự định cuối 2009 sẽ xây dựng xong. Trong lần trùng tu này đình được phục chế theo các ảnh chụp còn lưu trữ bên Pháp. Sau khi làm xong đình thì Chùa Thổ Hà và Văn chỉ cũng sẽ xây dựng lại.

Nội dung bia "Thủy tạo đình miếu bi" [1]

Bia đá trong đình Thủy tạo đình miếu bi

Phủ Bắc Hà, huyện An Việt, xã Thổ Hà. Quan viên, hương lão, toàn xã dưới trên lớn nhỏ, nay lập bia. Thường nói rằng dân là gốc rễ của nước, nước là nền tảng của dân. Nay tả địa hình núi sông của xã Thổ Hà: phía Đông đẹp đẽ như rồng quay về chốn tổ; Tây hùng vĩ như dáng hổ ngồi chầu; phía Nam có núi Hằng Lĩnh và dòng sông Nguyệt Đức, đó là sách trời đã định; Phía Bắc có ngọn núi Lát, hun đúc khí thiêng liêng cho dải đất Thổ Hà.

Phong cảnh đẹp sản xuất ra những bậc anh kỳ, trong xã có nhiều người giỏi dang và tuấn tú. Đường khoa cử có nhiều người làm quan văn võ, áo đỏ tía rực rỡ chốn triều đình. Nghề bán buôn của cải có nhiều, giàu có ngang với thiên hạ. Nhà nào cũng có nghề gốm phát đạt. Hàng năm đều mở hội hè vui vẻ.

Năm Ất Sửu (1685) hưng công làm đình lớn. Cột lớn nhỏ và thượng lương đều do các quan viên trong làng công đức. Chỉ còn thu của mọi người từ 5 đến 100 tuổi chẳng kể gái trai, mỗi người đóng góp 4 quan sử tiền và 200 bát gạo. Năm Đinh Mão mở hội khánh thành (1687). Năm Kỷ Tỵ (1689) xây dựng ngôi đền, mỗi người góp 500 sử tiền. Năm Tân Mùi (1691) xây dựng Tam quan, lại mở hội khánh thành. Năm Nhâm Thân (1692) làm cửa võng, mỗi người góp 400 sử tiền. Làm xong bốn cuộc hết 200 quan tiền, các lễ cúng 200 quan. Tiền công thợ mộc làm cửa võng 40 quan và sơn son thiếp vàng hết 100 quan.

Kính mong Đại Vương phù hộ toàn xã, người nhiều vật thịnh.

Nay các vị chức sắc trong xã ghi chép khắc bia những người có nhiều công lao đóng góp tiền tài, công sức, trí tuệ, của cải được khắc lên bia đá lưu truyền mãi đến muôn đời sau. Nay kê khai danh sách:

Thị nội giám, tư lễ giám, kiêm thái giám, chánh đội trưởng chi trưởng, Chiêm thọ hầu Thân Đăng Khoa, vợ Hoàng Thị Trị.Quan viên kiến nhiệm kỳ thụ tiến công thứ lang, đại cảo đồn điền sở, sở sứ, kiêm thủ khoán văn hội Cáp Đắc ĐạtTư lễ giám hữu... điểm, cán trạch bá Nguyễn Tiến TướcNguyên tuần sát huyện kiêm cai xã chiêu lược bá Nguyễn Đức ThuậtQuan viên tử tiền vệ úy cai xã đô nhân bá kiêm cai xã Cáp Sự.Ứng vụ khanh lão lão chính tri phủ phủ sĩ Nguyễn Như QuyềnHương lão nhiêu tăng thống Nguyễn Văn QuảnTiền tướng thần Nguyễn Hiếu ThậmTiền tướng thần kiêm phủ sỹ Nguyễn Đình HộiHương lão lão chính kiêm phủ sỹ Trịnh Tiến LộcPhủ sỹ Nguyễn Tất VịHương lão lão chính kiêm đạo sỹ Nguyễn Đình ThiNguyên cai xã đô quế bá, kiêm hương lão lão chính Nguyễn Hiếu HiềnNguyên cai xã đô tất bá Nguyễn Đức TĩnhNguyên cai xã đô lan bá, kiêm huyện sỹ lão chính Nguyễn Đức BáLão nhiêu Trịnh Vui, vợ Diêm Thị NộiNguyên cai xã Nguyễn Bao, vợ Nguyễn Thị DựTướng thần huyện sỹ Trịnh Hữu Giai, vợ Trịnh Bá Cống, Bùi Thị CẩmHương lão kiêm lão chính Trịnh Tiến Cao, vợ Nguyễn Thị LưuQuan viên tử kiêm huyện sỹ Cáp Thảo, vợ Trịnh Thị VânTrịnh Chức, vợ Trịnh Thị ĐạoNguyên cai xã án lộc bá đạo lục Trương Công Vinh, vợ Nguyễn Thị UyNguyễn Văn Tú, vợ Ngô Thị ChanhNguyễn Thị Chu, Nguyễn Thị Phan, Nguyễn Thị PháchNguyễn Thế Hương, Nguyễn Thị TồnNguyễn Đình Giảng, vợ Nguyễn Thị NguyệnHương lão lão chính kiêm huyện sỹ Trịnh Công Xuân, vợ Nguyễn Thị LanGiáp trưởng Nguyễn Đức Uẩn, vợ Trịnh Thị LiểuGiáp trưởng Trịnh Tiến Triều, vợ Nguyễn Thị TuầnBùi Tá Kỷ, vợ Nguyễn Thị VụCáp Đăng Lung, vợ Nguyễn Thị DỵQuan viên tử kiêm huyện sỹ Nguyễn Năng Tĩnh, vợ Cáp Thị HàoQuan viên tôn Nguyễn Năng Cao, Nguyễn Thị Phụng

Quan viên kỳ thụ đại cảo đồn điền sở, sở sứ, áp tác đình miếu Cáp Đắc Đạt soạn. Bản tổng an viên xã thư lộng Đỗ Đăng Tương tả. Đời Lê Chính Hòa năm thứ 13 quý thu, ngày cốc nhật lập bia.

Nội dung bia "Cung sao sự tích thánh"

Thành Thái năm thứ 9 (1897), bản xã hội họp, tuân theo lễ điển của triều Lê, bản chính nay sao chép. Duyên sự tích thần phả của bản xã bị thất lạc đã lâu. Nay nghe tin ở xã Bình Trù tỉnh Sơn Tây có con cháu quan Thượng thư, trong gia đình giữ được bách thần điển, bản xã thân tới xem xét, đối chiếu những tên húy và những ngày sự lệ rất là đúng. Nay xin sao chép nguyên bản đem về làng khắc vào bia đá để lưu truyền mãi mãi sau này. Nay sao cả những lời cấm kỵ, liệt kê dưới đây.

Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học. Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng 1 năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: "Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma". Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn. Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng 2 (đời vua An Dương Vương) Người đã hóa. Mọi người trong trang ngơ ngác sợ hãi, tâu về triều đình. Vua liền sai các quan về trang kính tế, tế xong phong Người là Thượng đẳng phúc thần, lại phong cho mẹ người là Đoan từ chi nhân, cho phép trang Thổ Hà xây đền miếu phụng thờ. Sau đó vua xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng). Thành xây nửa tháng vừa xong, vua hàng năm cứ đến ngày 22 tháng 2 xa giá đến làm lễ để tỏ lòng tôn kính một vị thần linh tuấn, đó là lẽ thường vậy. Lại phong cho là Đương cảnh thành hoàng thái thượng bản giác linh phù thượng đẳng phúc thần. Phong mẹ là Đoan y trinh thục, nhu hòa huệ ân, diệu mỹ thổ hoàng thái hậu. Từ đó về sau nghiệm thấy linh ứng nên các triều đại đế vương đều phong mỹ tự.

Vua Đinh Tiên Hoàng có lần bị vây ở chùa, vua liền cầu đảo, vòng vây được giải. Vua gia phong là Tôn thần linh ứng.

Vua Lê Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc xem xét lại bách thần phả, nhận thấy Người là thần linh ứng nên gia phong là Phụ ký uy dũng, phu hiển chiêu cảm, thượng đẳng.

Vua Trần Thái Tông bị giặc Nguyên vây hãm kinh thành, sai Trần Quốc Tuấn phụng mệnh cầu đảo, thấy có linh ứng âm phù, khi bắt được Ô Mã Nhi liền phong là Vị thần linh ứng, anh triết.

Vua Lê Thái Tổ đánh xong giặc Liễu Thăng, gia phong là Nhất vị tôn thần, phả tế cương nghị anh linh. Lại lệnh cho trang Thổ Hà sửa sang đền miếu, hương khói phụng thờ không bao giờ ngớt.

Kê khai ngày sinh, ngày hóa, ngày vào đám và tên húy cần kiêng. Sinh nhật 7 tháng giêng: lễ cúng ban thượng cúng chay, ban hạ bò lợn để cả con, xôi rượu tùy nghi, hát xướng vui vẻ trong ba ngày liền. Hóa nhật 22 tháng 2, lễ dùng ban thượng cúng chay, ban hạ một con lợn để nguyên và xôi rượu. Ngày vào đám thu tế mồng 6 tháng 8, lễ dùng như trên, cấm dùng trâu. Tên húy cần kiêng: Bá Dương, Thái Thượng, Mỹ Hoàng, những tiếng đồng âm cũng kiêng. Sắc áo quần cấm dùng: sắc vàng, sắc đỏ, người hành lễ phải kiêng. Hữu Hồng Đức đại học sỹ, kiêm quốc tử giám Lê Tung phụng soạn chính bản. Vĩnh hựu quản giám bách linh, lĩnh chức thiếu khanh Nguyễn Hiền tuân theo bản cũ. Năm Đinh Dậu tháng 8 ngày cốc nhật lập bia (1897).

Chùa Thổ Hà

Chùa Thổ Hà có tên là Đoan Minh Tự, được nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hóa 1996. Niên biểu chính thức của chùa chưa tìm thấy. Căn cứ dòng chữ ghi trên đôi rồng đá ở cửa chùa thì năm Giáp Thân 1580 đời nhà Mạc mua rồng đá, năm Canh Thân 1610 tu sửa lại. Đúng lý chùa phải làm trước khi mua rồng đá.

Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Qua Tam quan một quãng xa mới tới gác chuông (nay đã cháy), phía trước cửa chùa có hai sấu đá, bên phải là bia chùa hình vuông khắc chữ cả bốn mặt. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá. Thời gian kháng chiến quả chuông to trong gác chuông được lấy để đúc vũ khí. Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn, tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen.

Từ tòa Tam bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, đó là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì ở chùa này. Chùa Thổ Hà được Hội phật giáo Việt Nam rất quan tâm, luôn luôn cử sư về trụ trì ở chùa này.

  • Cổng tam quan chùa Thổ Hà
  • Sân chùa phía vào tiền đường; trong sân có bia đá, bốn mặt đều khắc chữ
  • Tượng Phật tổ Như Lai trong chùa
  • Bàn thờ trong Văn chỉ, cửa võng

Văn chỉ

Văn chỉ là nơi thờ Thánh Khổng Tử (có tượng Khổng Tử lớn bằng đồng), ghi dấu tích các bậc tiên nho, tiên hiền ở Thổ Hà, có học vị, thi đỗ qua các triều đại. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 28 tháng 2 năm 1999 do Bộ trưởng văn hóa thông tin Trần Hoàn ký. Văn chỉ xưa kia ở cạnh chùa. Miếu thờ lộ thiên, hai bên có hai dãy bia đá thẳng tắp, xây dựng năm 1680 đời Lê Chính Hòa. Hiện nay còn cái nền nhà cũ. Bia đá gồm 8 tấm từ 1680 đến 1856 Tự Đức cửu niên, còn nguyên vẹn, trong đó ghi số thí sinh trúng tuyển 75 người. Đến năm Minh Mạnh thứ 6 Ất Dậu 1825 mới xây ba gian chính điện, làm cửa võng, ba hoành biển, câu đối. Năm Bính Thìn Tự Đức cửu niên 1856 Văn chỉ được di chuyển về nơi cuối làng, lại xây thêm 5 gian tiền điện. Vào những ngày lễ tết, sóc vọng, sắp thi cử, các gia đình có con học hành hay sắp đi thi thường đến Văn chỉ làm lễ mong cho con học hành tiến bộ và thi đỗ.